Cải cách hành chính
Thực hiện Nghị quyết số 74/NQ-CP ngày 07/4/2025 của Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, UBND xã Bắc Phú đang triển khai tổ chức lấy ý kiến cử tri về phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Sóc Sơn.
Cụ thể, phương án sắp xếp sẽ bao gồm việc sáp nhập một số xã, gồm các xã: Tân Hưng, Bắc Phú, Việt Long, Xuân Giang, Đức Hoà, Xuân Thu, Kim Lũ . Sau khi sắp xếp, đơn vị hành chính mới sẽ mang tên: Đơn vị hành chính có tên gọi là ĐA PHÚC .
UBND xã Bắc Phú đã phát hành Phiếu lấy ý kiến cử tri đại diện hộ gia đình cho các thôn, khu, gửi đến từng hộ gia đình để đại diện hộ thực hiện việc ghi ý kiến, nhằm đảm bảo tính dân chủ, khách quan và đúng quy trình theo quy định của pháp luật. Phiếu gồm các lựa chọn về việc Đồng ý hoặc Không đồng ý với phương án sắp xếp và tên gọi mới của đơn vị hành chính.
Người dân cần lưu ý:
Mỗi phiếu chỉ dùng cho 01 đại diện hộ gia đình.
Ghi đầy đủ thông tin và đánh dấu rõ ràng vào các ô tương ứng để thể hiện ý kiến cá nhân và ký tên vào phiếu của mình.
Phiếu sẽ không hợp lệ nếu đánh dấu cả hai ô (đồng ý và không đồng ý) hoặc không đánh dấu ô nào.
Việc tổ chức lấy ý kiến lần này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện tinh thần dân chủ, đồng thuận trong cộng đồng dân cư, góp phần xây dựng bộ máy chính quyền địa phương ngày càng tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Đề nghị toàn thể cử tri và nhân dân tích cực tham gia, đóng góp ý kiến một cách trung thực, khách quan vì sự phát triển chung của địa phương.
Ngày 18/4/2025, UBND xã Bắc Phú đã ban hành và triển khai Kế hoạch Tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và thông qua HĐND xã về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Sóc Sơn.
Tại Hội nghị giao ban công tác tháng 3, triển khai nhiệm vụ công tác quý II và tháng 4 tổ chức chiều 1/4, Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho biết theo lộ trình, Đảng ủy Chính phủ sẽ báo cáo BCH Trung ương tại hội nghị lần thứ 11 để thông qua đề án sáp nhập tỉnh, xã, không tổ chức cấp huyện. Hội nghị ngày 16/4 cũng sẽ xác định các nhiệm vụ liên quan đến việc sắp xếp lại MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, tòa án và viện kiểm sát.
Theo Bộ trưởng, từ 1/5, các tỉnh, thành phố trên cả nước sẽ bắt đầu gửi đề án sắp xếp về Bộ Nội vụ để trình UBTV Quốc hội và Quốc hội xem xét. Bộ Nội vụ sẽ hỗ trợ các bộ, ngành điều chỉnh các văn bản pháp luật để phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Bộ Nội vụ đặt mục tiêu trình UBTV Quốc hội các công việc liên quan đến sáp nhập tỉnh, xã và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp trước ngày 30/6. "Ngày 1/7 là mốc để chính quyền cấp xã bắt đầu vận hành, ngày 30/8 là thời điểm toàn bộ hệ thống chính trị sau khi sắp xếp và tổ chức lại sẽ chính thức đi vào hoạt động đồng bộ", Bộ trưởng Trà khẳng định.
Bộ trưởng cũng yêu cầu các đơn vị nhanh chóng hoàn thành danh mục các nghị định cần sửa đổi để đảm bảo vận hành hiệu quả chính quyền địa phương hai cấp, cũng như việc phân cấp, phân quyền.
Từng đơn vị tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo kết hợp với các biện pháp thủ công để rà soát các văn bản pháp luật cần điều chỉnh, bổ sung và trình ban hành sớm sau khi Hiến pháp sửa đổi và Luật Tổ chức chính quyền địa phương được Quốc hội thông qua.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ cũng đề nghị rà soát các chính sách liên quan đến phụ cấp, phụ cấp đặc thù, lương tối thiểu vùng để có những đề xuất sửa đổi các nghị định cụ thể, đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh và tổ chức lại cấp xã.
Trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Vươn mình trong hội nhập quốc tế.
Nhìn lại lịch sử Cách mạng nước ta, hội nhập và phát triển của đất nước luôn gắn liền với những biến chuyển của thời đại. Ngay từ những ngày đầu lập nước, trong bức thư gửi tới Liên hợp quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ tinh thần là Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, bày tỏ mong muốn “thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đây có thể được coi là “bản tuyên ngôn” đầu tiên về cách tiếp cận của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với cộng đồng quốc tế.
Tư tưởng “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” đó đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong 80 năm qua, luôn gắn cách mạng nước ta với trào lưu tiến bộ của thời đại và sự nghiệp chung của nhân loại.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định muốn hòa bình và phát triển thì phải mở cửa với bên ngoài, hợp tác với các quốc gia khác, trong đó hội nhập quốc tế là hình thức, trình độ phát triển cao của hợp tác quốc tế. Nói cách khác hội nhập quốc tế là “đặt đất nước vào dòng chảy chính của thời đại, đập cùng nhịp đập, thở cùng hơi thở của thời đại”, gia tăng sức mạnh của mình thông qua việc gắn kết với thế giới. Đảng đã đề ra chủ trương hội nhập quốc tế, trước là hội nhập kinh tế, sau là hội nhập toàn diện để khơi thông, mở rộng quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vai trò, vị thế của quốc gia, đưa Việt Nam hội nhập vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế quốc tế và nền văn minh nhân loại.
Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình tới thịnh vượng, hùng cường, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đòi hỏi phải có tâm thế, vị thế mới và tư duy, cách tiếp cận mới về hội nhập quốc tế. Sự ra đời của Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới” là “quyết sách đột phá”, đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập của đất nước với việc định vị hội nhập quốc tế là động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Trong đó hội nhập quốc tế chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới.
Đảng ta xác định hội nhập quốc tế là chiến lược quan trọng nhằm củng cố vị thế chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên bản đồ thế giới. Hội nhập quốc tế đã từng bước phát triển qua các thời kỳ, từ hội nhập có giới hạn, có chọn lọc, thiên về ý thức hệ, hội nhập kinh tế đơn thuần ban đầu đến “hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện” hiện nay. Đại hội Đảng lần thứ IX lần đầu tiên đề ra chủ trương “hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội Đảng lần thứ XI đánh dấu một bước chuyển trong tư duy từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực”. Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị là sự cụ thể hóa đường lối hội nhập quốc tế với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, định hướng chiến lược này một lần nữa được phát triển, hoàn thiện hơn thành “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng có hiệu quả”.
Trong 40 năm đổi mới, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt những kết quả quan trọng, mang tầm vóc lịch sử. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 34 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh phát triển sâu rộng, thực chất.
Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành một trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô kinh tế tăng gần 100 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD lên gần 5.000 USD. Việc tham gia các thỏa thuận hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế đa tầng nấc, nhất là 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã gắn kết Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt, tham gia sâu hơn vào các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; nằm trong nhóm 20 nền kinh tế thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất thế giới từ năm 2019 đến nay, là một trong 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách tổng thể, nghiêm túc và khách quan, kết quả thực hiện các chủ trương hội nhập quốc tế vẫn còn những điểm chưa thực sự như mong đợi, chưa đạt các mục tiêu đề ra, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, rào cản, nút thắt đang cản trở sự phát triển. Hội nhập quốc tế mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng đem lại không ít thách thức và mặt trái như: Cạnh tranh không công bằng, tăng trưởng không bền vững, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, nguy cơ “chệch hướng”, “xâm lăng văn hóa”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “xói mòn niềm tin” trong nội bộ…
Thế giới đang đứng trước những thay đổi căn bản mang tính thời đại, biến đổi sâu sắc về mọi mặt dưới tác động của các chuyển dịch lớn của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ. Giai đoạn từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để định hình và xác lập trật tự thế giới mới. Những thay đổi này đang tạo ra một môi trường quốc tế đa chiều hơn, mở ra những vận hội lớn cùng nhiều thách thức lớn cho đất nước. Trong giai đoạn giao thời, quá độ giữa cái cũ và cái mới, các nước vừa và nhỏ thường bị đặt ở thế bị động, không kịp thích ứng. Trong lần chuyển đổi này, nếu không kịp thời bắt nhịp với thế giới, nhận diện và tranh thủ cơ hội để đặt đất nước vào đúng dòng chảy của thời đại trong 10 năm, 20 năm tới, nguy cơ tụt hậu sẽ hiện hữu hơn bao giờ hết.
Sức mạnh thời đại hiện nay là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới như hòa bình, hợp tác và phát triển, xu thế dân chủ hóa quan hệ quốc tế, xu thế phát triển bền vững, xu thế hợp tác và liên kết kinh tế; là sức mạnh của cộng đồng quốc tế đồng thuận trong kiến tạo, củng cố thế giới đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công bằng, bình đẳng, dựa trên luật pháp quốc tế và đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang mở ra không gian phát triển vô tận dựa trên tri thức và tiềm năng con người.
Đứng trước thời điểm lịch sử, đất nước cần những quyết sách lịch sử. Kế thừa những giá trị đã được khẳng định, Nghị quyết số 59 đã nắm bắt được dòng chảy của sức mạnh thời đại và “nâng tầm” hội nhập quốc tế với những quan điểm mang tính cách mạng, tính đột phá, tính dân tộc, tính khoa học, tính thời đại cao.
Trước hết, cùng với quốc phòng, an ninh, “đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế” là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Tinh thần trọng yếu thường xuyên trong hội nhập quốc tế là phải tranh thủ nguồn lực, điều kiện thuận lợi bên ngoài cho mục tiêu bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước từ sớm, từ xa; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đảm bảo tốt nhất lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, trong nhận thức, hội nhập quốc tế phải là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể, động lực, lực lượng chủ công và đối tượng thụ hưởng các lợi ích của hội nhập quốc tế. Hội nhập nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc, hội nhập, hòa nhập chứ không hòa tan.
Thứ ba, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở nội lực có vai trò quyết định, gia tăng nội lực đi đôi với với tranh thủ ngoại lực. Nội lực là nguồn lực chính, là gốc rễ cho sức mạnh, vì vậy phải luôn được phát huy để đảm bảo tính chủ động, độc lập, tự cường nhưng đồng thời, cần tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để kết hợp và bổ sung cho nội lực. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.
Thứ tư, hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, “hợp tác để đấu tranh và đấu tranh để hợp tác. Chú trọng phần đối tác, hạn chế phần đối tượng”. Đồng thời, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trong hội nhập, phải thể hiện đúng tinh thần “đối tác tích cực, có trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế, sẵn sàng đóng góp cho những nỗ lực chung của khu vực và thế giới.
Thứ năm, hội nhập quốc tế phải mang tính chất “đồng bộ, toàn diện, sâu rộng”, trong đó các lĩnh vực phải gắn kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong một chiến lược tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm với lộ trình và bước đi phù hợp.
Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện cho phát triển. Cùng với “tinh thần đổi mới” về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị của Nghị quyết số 18; “tư tưởng đột phá” về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của Nghị quyết số 57; định hướng về hội nhập quốc tế là “cẩm nang hành động”của Nghị quyết số 59 sẽ tạo nên “bộ ba chiến lược” trong trọng tâm “Ổn định lâu dài - Phát triển bền vững - Đời sống nâng cao” do Đảng đã vạch ra. Giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta cần triển khai quyết liệt và hiệu quả theo các hướng sau:
Một là tư duy, nhận thức và hành động mới trong hội nhập quốc tế phải được quán triệt sâu rộng, đi vào cuộc sống. Theo đó, nhận thức về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đồng bộ, toàn diện, sâu rộng và hiệu quả là một định hướng chiến lược lớn của Đảng, là một động lực quan trọng để phát triển và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần được thống nhất từ Trung ương tới địa phương, đến từng tổ chức, từng người dân và doanh nghiệp. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hội nhập quốc tế, các yêu cầu, nhiệm vụ, cơ hội, quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của Việt Nam trong hội nhập quốc tế cần được phổ biến, quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Hai là hội nhập kinh tế được xác định là trung tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế với ưu tiên hàng đầu là cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số. Tập trung vào các ngành có lợi thế và tiềm năng, ưu tiên huy động nguồn lực cho những lĩnh vực, dự án then chốt như của hạ tầng chiến lược về giao thông, về năng lượng như đường sắt tốc độ cao, đường cao tốc, hệ thống cảng biển, sân bay; nhà máy điện hạt nhân, điện gió, điện mặt trời; giảm phát thải và trung hòa các-bon để tránh lãng phí và đạt hiệu quả cao, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Cần tận dụng hiệu quả các cam kết, thỏa thuận, liên kết kinh tế quốc tế, nhất là các FTA thế hệ mới, để tăng cường đan xen lợi ích, không để phụ thuộc vào một số ít đối tác. Hoàn thiện thể chế trong nước nhằm nâng cao năng lực thực thi các cam kết, thỏa thuận quốc tế. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI chất lượng cao, nhất là trong các lĩnh vực mới nổi, quan trọng, động lực mới cho tăng năng suất lao động như công nghệ thông tin, viễn thông, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo… Có chính sách phù hợp để thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ, quản trị, kỹ năng chuyên môn cho doanh nghiệp và lao động Việt Nam. Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh có hiệu quả ở nước ngoài, xây dựng các thương hiệu quốc gia mang tầm quốc tế.
Ba là hội nhập về chính trị, an ninh, quốc phòng phải hướng tới mục tiêu nâng cao tiềm lực, vị thế đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Hội nhập quốc tế phải phát huy hiệu quả mạng lưới các quan hệ đối tác đã được xác lập để gia tăng tin cậy chính trị, tranh thủ nguồn lực cho phát triển, giải quyết các vấn đề còn tồn tại bằng biện pháp hòa bình, tăng cường hợp tác trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế. Tăng cường phối hợp với các đối tác để ứng phó hiệu quả với thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống như vấn đề Biển Đông, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực; chống ô nhiễm, dịch bệnh, tội phạm mạng, tội phạm xuyên quốc gia… Với thế và lực mới, chúng ta có thể vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải trong những lĩnh vực phù hợp; đóng góp tích cực hơn vào hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn quốc tế; đa dạng hóa hợp tác quốc phòng, an ninh, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, an ninh tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng.
Bốn là, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải được xác định là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực phát triển nhanh lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất theo tinh thần của Nghị quyết số 57. Do đó hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải hướng tới việc đưa các chuẩn mực, quy định về khoa học, công nghệ trong nước tiệm cận với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến. Qua đó, nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, mở rộng không gian phát triển của đất nước, huy động, tranh thủ được nguồn lực quốc tế và phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong nước để phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn, các ngành mới nổi và các lĩnh vực đổi mới sáng tạo.
Năm là, đẩy mạnh hội nhập toàn diện về văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục - đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác. Về văn hóa hội nhập nhưng phải gắn với bảo tồn, phát huy và quảng bá văn hóa dân tộc; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp nội dung, các sản phẩm, thương hiệu văn hóa có chất lượng và năng lực cạnh tranh toàn cầu. Về y tế, tăng cường hợp tác về nghiên cứu, ứng dụng khoa học trong y tế trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển một số trung tâm y tế chuyên sâu ngang tầm quốc tế để chữa, trị bệnh theo phương châm “Đông-Tây y kết hợp”. Về giáo dục - đào tạo, đẩy mạnh chuẩn hóa, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục của các cơ sở đào tạo trong nước ngang tầm khu vực và quốc tế. Về du lịch, mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chú trọng các thị trường có tiềm năng, có nguồn khách lớn, có mức chi tiêu cao và lưu trú lâu ngày. Về lao động, triển khai các cơ chế phát triển nhân lực chất lượng cao, nâng cao kỹ năng học tập suốt đời, năng lực và năng suất của lực lượng lao động Việt Nam. Và cao nhất, là xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam của “thế hệ vươn mình”, để đến năm 2045 những chàng trai, cô gái tuổi mười tám, đôi mươi sánh vai cùng bạn bè quốc tế cả về trí tuệ và thể chất.
Sáu là, khắc phục điểm nghẽn về thực thi cam kết, thỏa thuận quốc tế và đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách. Trong đó, đẩy mạnh việc rà soát, nội luật hóa pháp luật quốc tế để thực hiện đầy đủ, đồng bộ và hiệu quả các nghĩa vụ, cam kết của ta. Các tổ chức, đoàn thể phải tăng cường giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật và các cam kết về hội nhập quốc tế. Các bộ, ngành, địa phương phải đẩy mạnh đôn đốc việc thực hiện các cam kết, thỏa thuận quốc tế. Đồng thời, thể chế hóa, cụ thể hóa các chiến lược hội nhập quốc tế theo ngành, lĩnh vực, nhất là xây dựng, hoàn thiện pháp luật liên quan đến kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số, giảm phát thải các-bon, không gian vũ trụ.
Bảy là, phát huy tinh thần của Nghị quyết số 18 trong hội nhập quốc tế, kiện toàn các cơ quan chuyên trách theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiện đại, chuyên nghiệp. Mục tiêu là đưa các cơ chế này hoạt động hiệu quả hơn, tạo chuyển biến trong phối hợp triển khai hội nhập quốc tế giữa các cấp, các ngành, các địa phương và từng người dân, doanh nghiệp. Coi công tác cán bộ là “gốc”, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập, có chuyên môn, kỹ năng cao, ngang tầm quốc tế, có khả năng tham gia hòa giải, giải quyết tranh chấp quốc tế. Đổi mới, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của địa phương, người dân và doanh nghiệp trong tham gia hội nhập quốc tế.
Cuối cùng, hội nhập quốc tế chỉ thành công khi hội nhập trở thành văn hóa tự giác của mọi tổ chức cá nhân, doanh nghiệp, địa phương; phát huy được vai trò trung tâm, sự tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo của cả người dân, doanh nghiệp, địa phương trong gắn kết hội nhập quốc tế và hội nhập trong nước, kết nối giữa các vùng, miền, địa phương, kết nối giữa các ngành, lĩnh vực, kết nối giữa nghiên cứu và triển khai… để đưa hội nhập thành các kết quả cụ thể.
Bác Hồ của chúng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tìm ra con đường cứu nước, đưa Việt Nam thoát khỏi cảnh nô lệ, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau như ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Noi gương Bác, chúng ta phải bắt nhịp với sự vận động của thế giới, tìm ra con đường mang lại hòa bình, ổn định, thịnh vượng, phát triển và xây dựng vị thế cao hơn, vững chắc hơn cho đất nước trong kỷ nguyên mới.
Đất nước đang đứng trước cơ hội lớn để vươn mình, nhưng thách thức cũng vô cùng to lớn. Những thành quả của hội nhập cho đến nay đã góp phần tích lũy thế và lực cho sự bứt phá tiếp theo. Tiếp nối tinh thần đó, Nghị quyết số 59 đánh dấu bước chuyển quan trọng của Đảng ta về tư duy và định hướng hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới, tạo động lực đưa đất nước tiến tới đài vinh quang của độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn thịnh, trường tồn.
TÔ LÂM, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
TỈNH TÁO TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TINH GỌN BỘ MÁY
Tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đang được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực. Tuy nhiên với âm mưu chống phá, các thế lực thù địch lại hằn học, liên tục đưa ra những luận điệu xuyên tạc, gây hoang mang trong xã hội. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần tỉnh táo trước luận điệu sai trái, bịa đặt, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay sau khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 126-KL/TW (ngày 14/2/2025) và Kết luận số 127-KL/TW (ngày 28/2/2025) về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025, trên một số trang mạng xã hội và báo chí phản động ở nước ngoài lập tức đăng tải những bài viết, ý kiến xuyên tạc vấn đề này như: Cho rằng sáp nhập là do “ý chí chủ quan” của cá nhân nhằm “ghi điểm, tạo dấu ấn” hoặc “triệt hạ đối thủ”; “sáp nhập một thời gian rồi sẽ tách ra”; “sáp nhập, tinh giản biên chế, tinh gọn tổ chức cũng chỉ vì lợi ích nhóm”... Tuy nhiên thực tế đã chứng minh, tinh gọn tổ chức bộ máy là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta.
Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới (Đại hội VI/1986) đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Bởi lẽ, bộ máy cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn hoặc một số chủ trương không được triển khai, hay triển khai hình thức trên thực tế.
Văn kiện Đại hội lần thứ IX, XII, XIII của Đảng đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Ngày 17/4/2015, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với mục tiêu đến năm 2021, tinh giản ít nhất 10% biên chế.
Tiếp đến ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nghị quyết số 18 đặt ra mục tiêu đến năm 2021 cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian; giảm ít nhất 10% biên chế so với năm 2015. Đến năm 2030, hoàn thành việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới. Kết quả đến năm 2021, chúng ta tinh giản được 11,67% biên chế, vượt chỉ tiêu đề ra.
Trình bày Báo cáo của Chính phủ về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2023 tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV (tháng 5/2024), Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ) cho biết, Chính phủ đã ban hành 27 nghị định về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các bộ, ngành đã giảm 17 tổng cục và tương đương; giảm 10 cục và 144 vụ/ban thuộc tổng cục và thuộc bộ; giảm 108 phòng trong vụ/ban thuộc bộ, ngành; giảm 22 đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, trong năm 2023, Thủ tướng phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa 144 quy định kinh doanh. Tổng số quy định kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa từ năm 2021 đến nay là 2.770 quy định. Có 147 thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan quản lý dân cư được thực hiện đơn giản hóa đạt 49,26%. Về quản lý và tinh giản biên chế, thực hiện các nghị định của Chính phủ, từ năm 2015 đến ngày 15/12/2023, cả nước tinh giản biên chế 84.140 người.
Có thể khẳng định, cải cách bộ máy hành chính là một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan nhà nước, đồng thời giảm tới mức thấp nhất các chi phí hành chính không cần thiết. Từ ngày 1/3/2025, các cơ quan, đơn vị mới thành lập sau sáp nhập chính thức đi vào hoạt động theo hướng tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, góp phần tạo động lực phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.
Quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy đã giảm đáng kể số đầu mối, cơ quan. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy thực hiện theo nguyên tắc tổ chức hợp lý các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì, thực hiện và chịu trách nhiệm chính, bảo đảm không chồng chéo, giao thoa, không bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Một kết quả bước đầu trong thực hiện chủ trương lớn này là mới đây, sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về khả năng cân đối tài chính trong và sau quá trình tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, Bộ Chính trị quyết định miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước; thời điểm thực hiện từ đầu năm học mới 2025-2026.
Quyết sách này không chỉ giảm gánh nặng cho gia đình học sinh ở vùng khó khăn, mà còn bảo đảm cơ hội học tập tốt nhất cho học sinh ở mọi địa bàn, mọi độ tuổi, góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương phổ cập giáo dục trung học; từ đó nâng cao trình độ dân trí và tạo nền móng vững chắc để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tại các địa phương trong cả nước, từ nhiều ngày qua, cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan vừa được hợp nhất, sáp nhập, chuyển chức năng, nhiệm vụ đã bắt tay ngay vào kiện toàn, phân công, phân cấp, phân quyền nhiệm vụ, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác của các đơn vị thông suốt ngay từ ngày đầu chính thức hoạt động. Đáng chú ý, từ ngày 1/3, tại công an xã, người dân được thực hiện một số thủ tục hành chính trước đây vốn thuộc thẩm quyền của công an huyện như: Đăng ký ô-tô, xe máy; cấp mới, đổi, cấp lại thẻ căn cước cho người đủ từ 14 tuổi trở lên và cho người dưới 14 tuổi; cấp tài khoản định danh điện tử cho cơ quan, tổ chức; tiếp nhận hồ sơ cấp đổi, cấp lại giấy phép lái xe...
Có thể khẳng định chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy trong hệ thống chính trị được Đảng và Nhà nước ta triển khai với mục tiêu là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí “nuôi” bộ máy, dành nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân tốt hơn. Thế nhưng với thái độ hằn học và âm mưu chống phá, các thế lực thù địch lợi dụng sự thay đổi này để tung tin bịa đặt việc làm này “chỉ là hình thức, mị dân”, không đem lại hiệu quả thực tế mà chỉ gây tốn kém, lãng phí.
Tổ chức khủng bố Việt Tân còn tiến hành cái gọi là “Luận bàn về bản chất của tinh giản biên chế”, trong đó mời một số người được gọi là “nhà khoa học” xuyên tạc về việc giảm biên chế là “bóp chỗ này, phình chỗ khác”, cán bộ giảm biên chế thực chất là cho “hạ cánh an toàn”… Một thủ đoạn khá tinh vi của các đối tượng thù địch là dựa trên số liệu chính thức của các cơ quan rồi “phân tích”, “bình luận”, “suy diễn”, “đổi trắng thay đen”. Chẳng hạn khi Chính phủ, Quốc hội và một số bộ, cơ quan sau khi sáp nhập, tổ chức lại số cán bộ cấp phó tăng hơn so với quy định, chúng lập tức rêu rao: “Càng tinh gọn lại càng phình ra”.
Đúng là có thực tế sau khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất, tổ chức lại thì số cán bộ cấp phó ở một số cơ quan từ Trung ương đến địa phương tăng cao hơn so với quy định. Tuy nhiên, đây là giải pháp phù hợp cho giai đoạn chuyển tiếp, bởi số lượng cơ quan và cán bộ lãnh đạo thuộc diện phải sáp nhập, giải thể là rất lớn, không thể máy móc “áp” đúng số lượng cấp phó ngay tại thời điểm sắp xếp lại. Khi hợp nhất, sáp nhập hai cơ quan thì việc một cán bộ cấp trưởng và đội ngũ cán bộ cấp phó của hai cơ quan này nếu vẫn còn thời gian công tác, có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, trở thành cấp phó của người đứng đầu cơ quan mới cũng là hợp tình, hợp lý, vừa không lãng phí nguồn nhân lực, vừa mang ý nghĩa nhân văn.
Đây cũng chỉ là giải pháp tình thế, sau một thời gian, số lượng cấp phó sẽ phải giảm đi. Cơ sở pháp lý của việc “nhiều cấp phó” này đã được quy định trong nghị quyết của Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV diễn ra mới đây. Khi sắp xếp tổ chức bộ máy mà số lượng cấp phó của người đứng đầu cơ quan nhiều hơn số lượng tối đa theo quy định của pháp luật thì chậm nhất là 5 năm kể từ ngày quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền có hiệu lực, số lượng cấp phó của người đứng đầu cơ quan phải giảm theo đúng quy định. Như vậy, về lâu dài thì sẽ không có việc cấp phó “càng tinh gọn lại càng phình ra” như các luận điệu xuyên tạc.
Trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, người dân cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Không nên chia sẻ trên mạng xã hội thông tin thất thiệt, thông tin chưa được kiểm chứng từ cơ quan chức năng. Việc lan truyền thông tin chưa được xác thực có thể gây hoang mang và ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng.
Những trường hợp đăng tải thông tin sai sự thật sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần trang bị cho mình “bộ lọc” trong việc tiếp nhận thông tin cũng như “sức đề kháng” trước thông tin xấu độc, từ đó phát huy tính chủ động, kiên quyết đấu tranh với những đối tượng mượn danh “phản biện”, “dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Nguồn: Hương sen việt
VĂN BẢN CHỈ ĐẠO CỦA HUYỆN ỦY
- Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác tháng 5, nhiệm vụ trọng tâm tháng 6/2021
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng quý I, nhiệm vụ trọng tâm 9 tháng...
- Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác tháng 8, nhiệm vụ trọng tâm tháng 9/2021
- Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác tháng 7, nhiệm vụ trọng tâm tháng 8/2021
VĂN BẢN CHỈ ĐẠO CỦA UBND
- Thông báo về việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Xã Bắc Phú triển khai kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và thông qua HĐND xã về sắp xếp đơn vị...
- Kế hoạch triển khai "Tháng hành động vì An toàn thực phẩm" năm 2025
- Thông báo về việc chấp hành các quy định về đất đai, trật tự xây dựng trên địa bàn xã Bắc Phú
- Thông báo về thời gian tổ chức cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng vi phạm
VĂN BẢN CHỈ ĐẠO CỦA HĐND
- Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác tháng 5, nhiệm vụ trọng tâm tháng 6/2021
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng quý I, nhiệm vụ trọng tâm 9 tháng...
- Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác tháng 8, nhiệm vụ trọng tâm tháng 9/2021
- Tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác tháng 7, nhiệm vụ trọng tâm tháng 8/2021